Slider

Vào ngày 21-6-1922, Kervan - nhà truyền giáo Bỉ, tới huyện Batingue Nội Mông (Trung Quốc) giảng đạo. Ông được tín đồ dẫn tới xem một ngôi một cổ bị bọn trộm đào tanh bành. Ông phát hiện một tấm bia đá khắc chi chít ký hiệu tựa như văn tự rất kỳ lạ mà dân địa phương gọi là thiên thư (sách trời).

Theo khảo chứng, đây là mộ của một người Khiết Đan qua đời khoảng 900 năm trước. Những ký hiệu kỳ lạ kia trong sách trời có phải là chữ viết của người Khiết Đan xưa không?

Sự bí ẩn của "thiên thư"

Sử sách ghi tộc người Khiết Đan dựng nên nước Liêu năm 907, từng sáng tạo nên chữ viết Khiết Đan. Nhưng khoảng 900 năm về trước, chữ viết Khiết Đan đã thất truyền, người đời sau dẫu có nhìn thấy cũng không thể đọc được. Các chuyên gia suy đoán: Sách trời chính là văn tự Khiết Đan đã chôn vùi nhiều trăm năm. Từ đó về sau, trong cương vực của nước Liêu rộng mênh mông, người ta thi thoảng lại thăm dò, khai quật, phát lộ được nhiều văn tự và văn vật lịch sử của tộc người Khiết Đan.

khiet dan vuong trieu hung manh bi lang quen 7

Năm 1986, tại thành phố Thông Liêu thuộc khu tự trị Nội Mông, người ta phát hiện một ngôi mộ cổ hợp táng công chúa và phò mã Khiết Đan. Đây là ngôi mộ có nhiều văn vật tùy táng có giá trị nhất cho tới ngày nay. Hình thức chôn cất cùng các đồ tùy táng cho thấy người Khiết Đan chịu ảnh hưởng khá nhiều văn hóa của người Hán vùng Trung Nguyên.

Tuy hài cốt trong mộ đã tiêu tan, nhưng qua tấm lưới đan bằng sợi bạc cực mảnh và lá vàng mỏng rộng đắp mặt tử thi cho thấy nhân thân cao sang của chủ nhân ngôi mộ sinh thời. Những đồ tùy táng từ vàng bạc, ngọc ngà, đá quý cho tới đồ dùng sinh hoạt bằng gốm, gỗ quý đều được chế tác cực kỳ tinh xảo, thể hiện trình độ thủ công mỹ nghệ đương thời thật siêu việt.

Cung điện 1.000 năm của vương triều Khiết Đan

Cung điện do người Khiết Đan xây dựng dưới thời Liêu có tổng diện tích hơn 200 m2, là nơi tránh nóng mùa hè cho hoàng tộc và cận thần.

Các nhà khảo cổ học phát hiện dấu tích của một cung điện cổ đại đóng vai trò như nơi nghỉ mát mùa hè của vua quan nhà Liêu. Để tránh nóng, mỗi năm từ giữa tháng 4 đến giữa tháng 7, hoàng đế nhà Liêu đưa cả hoàng tộc cùng quan lại cấp cao lên dãy núi nay thuộc khu tự trị Nội Mông, Trung Quốc.

khiet dan vuong trieu hung manh bi lang quen 2

Nhóm chuyên gia khảo cổ tìm thấy hơn 100 thành phần kết cấu ở di chỉ tại huyện Đa Luân, khu tự trị Nội Mông, bao gồm gạch tráng men, gốm sứ và đinh đồng. Họ ghi nhận nền móng của 12 tòa nhà với tổng diện tích hơn 232 m2. Ge Zhiyong, nhà nghiên cứu tại Viện khảo cổ Khu tự trị Nội Mông, cho biết các đồ tạo tác khai quật từ di chỉ giúp xác định cung điện được xây vào giữa triều Liêu.

Phát hiện về cung điện sẽ giúp các nhà khảo cổ học có thêm nhiều hiểu biết mới về cả kiến trúc và phong tục văn hóa của triều Liêu. Các cuộc khai quật quy mô lớn sẽ được tiến hành tại di chỉ.

Vương triều Khiết Đan

Khiết Đan (Qidan) nguyên nghĩa là “Thép gió”, hàm ý cực kỳ rắn chắc, bền vững. Đây là một dân tộc thượng võ, dũng mãnh. Từ hơn 1.400 năm trước, Khiết Đan là dân tộc miền Bắc Trung Quốc đã xuất hiện trong Ngụy thư. Họ binh hùng tướng mạnh, kiêu dũng thiện chiến. Một thủ lĩnh bộ lạc tên là Yelii Abaoji (Gia Luật A Bao Cơ) thống nhất các bộ lạc Khiết Đan. Năm 916, ông dựng nên nước Khiết Đan, tới năm 947 đổi quốc hiệu là Đại Liêu.

Trong thời kỳ cường thịnh nhất, vương triều Đại Liêu từng chiếm một nửa giang sơn Trung Quốc. Cương vực của họ rộng mênh mông: Bắc tới tận hồ Baikal, ngoài Đại Hưng An; Đông sát Sakhalin; Tây vượt dãy Altai; Nam tới Hà Bắc và phía Bắc tỉnh Sơn Tây ngày nay. Có thể nói họ là bá vương một cõi.

khiet dan vuong trieu hung manh bi lang quen 3

Vương triều Khiết Đan quốc hiệu Đại Liêu hùng cứ tại miền Bắc Trung Quốc kéo dài hơn 200 năm, với triều Bắc Tống hình thành cục diện đối địch. Trong thời kỳ này, con đường tơ lụa thông thương từ Trung Quốc sang phương Tây bị cắt đứt, dẫn tới các quốc gia vùng lục địa Á Âu tưởng nhầm là toàn bộ đất nước Trung Quốc đều đã nằm dưới sự thống trị của tộc người Khiết Đan. Thế là Khiết Đan bỗng trở thành từ đại diện cho Trung Quốc.

Marco Polo lần đầu tiên viết trong cuốn du ký của mình giới thiệu phương Đông với thế giới phương Tây, đã lấy Khiết Đan đặt tên cho Trung Quốc. Tới tận ngày nay, các nước nói tiếng Slave vẫn gọi Trung Quốc là Khiết Đan (Kitan hay Kitai).

Dân tộc Khiết Đan không chỉ sáng tạo nên một đế quốc quân sự mà còn cả một nền văn hóa xán lạn. Thể hiện rõ nét nhất nền văn hóa này là những chùa Liêu và tháp Liêu. Hiện ở khu vực phía bắc Hoàng Hà còn bảo tồn chùa Cổ Phật và Phật tháp nguy nga hùng vĩ của dân tộc Khiết Đan. Trải qua ngàn năm mưa gió nó vẫn uy nghi, vững chãi như mới. Đặc biệt, Tháp Thích Ca tại huyện Ứng (tỉnh Sơn Tây) là kiến trúc kiểu tháp kết cấu gỗ xưa nhất, cao nhất trên toàn thế giới, từng trải qua mấy trận động đất mà vẫn không bị hư hỏng.

khiet dan vuong trieu hung manh bi lang quen 4

 

Một dân tộc sáng tạo ra nền văn hóa huy hoàng như thế nhất định phải dựa trên cơ sở kinh tế vững chắc với lực lượng hùng hậu và trình độ kỹ thuật, nghệ thuật khá cao. Đồng thời cũng có thể thấy vương triều Khiết Đan hấp thu nhiều luồng văn hóa.

Cũng có thể thấy rõ vương triều Khiết Đan tiếp thu mọi điều hay dở. Ngoài việc thu nhận một số lượng rất đông nhân tài Hán tộc Trung Nguyên ra, họ còn thông qua buôn bán với triều Tống mà thu nhận, học hỏi nhiều kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Người Khiết Đan hùng dũng trên lưng ngựa đã tạo cho phương Bắc Trung Hoa một thời kỳ phát triển phồn thịnh.

Đại Liêu diệt vong

Theo ghi chép thì Đại Liêu đối đầu với Bắc Tống hơn 160 năm. Cuối cùng, nước tiêu diệt Đại Liêu lại là tộc người Nữ Chân (Niizhen) từng phụ thuộc tộc người Khiết Đan.

Thủ lĩnh của tộc người Nữ Chân là Wanyan Aguda (Hoàn Nhan A Cốt Đả) dẫn đại quân công thành cướp đất Đại Liêu. Khi đất chiếm đã đủ rộng, dân đinh đã tương đối nhiều, A Cốt Đả liền dựng nên nhà Kim năm 1115. Mười năm sau, nhà Kim thay thế vương triều Khiết Đan.

khiet dan vuong trieu hung manh bi lang quen 1

Một bộ phận người Khiết Đan may mắn sống sót tập hợp các thành viên hoàng gia di tản về phía Tây, dựng nên triều Tây Liêu tại vùng Tân Cương. Họ lập nước Ha Lạt Khiết Đan (Hala Qidan). Đế quốc này một thời cường thịnh nhưng cuối cùng lại bị đại quân của Thành Cát Tư Hãn (Gengis Khan) tiêu diệt. Về sau, thế lực tàn dư Khiết Đan dạt tới miền Nam Iran ngày nay và dựng nên vương triều Qierman. Không lâu sau, vương triều này cũng tàn lụi.

Trong lãnh thổ Trung Quốc, từ khi có vương triều Khiết Đan (916) đến khi có vương triều Nguyên (1271), chỉ hơn 300 năm đã liên tiếp xuất hiện các triều Đại Liêu, Bắc Tống, Tây Hạ, Kim, Nam Tống và Nguyên... Đây là một thời kỳ hết sức đặc biệt bởi kẻ thống trị giành được thiên hạ lần lượt thuộc về các dân tộc khác nhau.

Vì vậy, sự hưng suy của vương triều cũng dẫn tới địa vị của cả dân tộc. Nền văn hóa tương quan cũng xảy ra sự chuyển đổi. Triều Kim của người Nữ Chân sau khi dành được thiên hạ của người Khiết Đan từng hạ lệnh thanh trừng triệt để đám người Khiết Đan phản kháng. Sử sách cho thấy có một đợt tàn sát hàng loạt kéo dài tới hơn một tháng ròng. Rất có thể là nền văn hóa Khiết Đan cũng bị loại bỏ trong thời kỳ này.

Triều Kim khi mới tạo dựng vẫn chưa có chữ viết riêng của dân tộc mình, phải mượn chữ Hán để cải thành chữ Kim. Hoàng đế Kim chính thức hạ chiếu loại bỏ hẳn chữ Khiết Đan và có thể vì lẽ đó mà chữ viết Khiết Đan bị thất truyền.

Hậu duệ của người Khiết Đan

Trong lịch sử Trung Hoa, chuyện thay ngôi đổi chủ thường xuyên xảy ra nhưng nền văn hóa truyền thống vẫn tiếp nối. Song, vương triều Khiết Đan sau khi bị diệt vong thì cả nền văn hóa Khiết Đan cũng theo đó mà tàn lụi.

Phân tích nguyên nhân, có thể thấy, từ khi vương triều Khiết Đan kiến lập đến năm 1271 triều Nguyên ra đời, trong khoảng hơn 300 năm, Trung Hoa xuất hiện đến 6 triều đại: Liêu, Bắc Tống, Tây Hạ, Kim, Nam Tống, Nguyên. Đây là một giai đoạn lịch sử rất đặc biệt.

Do kẻ thống trị triệt hạ nhau giành quyền chính đều thuộc các tộc người khác nhau nên triều đại nào bị tiêu diệt là kéo theo cả vị trí của dân tộc đó cùng nền văn hóa tương quan bị biến chuyển hoặc hủy diệt. Triều Kim của tộc Nữ Chân sau khi đoạt triều Đại Liêu đã hạ lệnh giết sạch những người Khiết Đan phản kháng, trong đó có một cuộc chém giết kéo dài liên tục hơn 1 tháng được ghi trong sử.

Rất có khả năng văn hóa Khiết Đan đã gặp tai họa vào lúc đó. Ngoài ra, lúc triều Kim vừa kiến lập, do tộc Nữ Chân không có văn tự riêng nên phải dùng chữ Hán và chữ Khiết Đan. Sau khi văn tự Nữ Chân được tạo ra thì hoàng đế triều Kim hạ lệnh phế bỏ chữ Khiết Đan, chính vì thế mà văn tự Khiết Đan thất truyền, văn hóa Khiết Đan tuyệt tích.

Ông Lưu Phụng Chư, chuyên viên Phòng Nghiên cứu dân tộc, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, là người hiểu được văn tự Khiết Đan nhiều nhất thế giới hiện nay. Ông cho biết toàn bộ chữ Khiết Đan phát hiện được đều khắc trên bia mộ và chưa có thư tịch nào viết bằng chữ Khiết Đan cả. Điều này gây khó khăn rất lớn trong việc tìm hiểu toàn thể diện mạo Khiết Đan.

Trong Di Hòa Viên ở Bắc Kinh hiện còn một ngôi mộ và đền thờ Gia Luật Sở Tài, một người Khiết Đan hiếm hoi được Thành Cát Tư Hãn trọng dụng, làm đến chức vụ tương đương tể tướng triều Nguyên. Điều đáng nói là Gia Luật Sở Tài ra đời sau khi vương triều Khiết Đan diệt vong chỉ 65 năm, nhưng văn tự Khiết Đan đã không còn, ông phải mày mò tự học rất vất vả và rồi cũng không có cơ hội sử dụng (theo Trạm Nhiên cư sĩ tập). Gia Luật Sở Tài là điểm sáng cuối cùng của người Khiết Đan.

khiet dan vuong trieu hung manh bi lang quen 6

Ngày nay trong 56 dân tộc ở Trung Quốc không hề có cái tên Khiết Đan lừng lẫy một thời, vậy họ đã đi đâu? Các nhà sử học suy đoán có 3 khả năng:

- Thứ nhất, người Khiết Đan ở vùng đất tổ tiên của họ đã dần quên cội nguồn, dung hợp và đồng hóa với các dân tộc khác.

- Thứ hai, sau khi Đại Liêu bị tiêu diệt, đại bộ phận người Khiết Đan kéo về phía Tây đến vùng Kerman, Iran, cuối cùng hoàn toàn bị “Iran hóa”.

- Thứ ba, sau khi chiến tranh giữa triều Kim và Mông Cổ xảy ra, một bộ phận người Khiết Đan “thề không ăn gạo nhà Kim” đã đi theo quân Mông Cổ chinh phạt, tử thương rất nhiều. Số còn lại phân tán nhiều nơi, cuối cùng bị đồng hóa.

Trong thời gian tìm kiếm dấu vết của người Khiết Đan, các chuyên gia đặc biệt chú ý đến tộc người Tahua (Đạt Oát Nhĩ) sinh sống ở vùng giáp giới núi Đại Hưng An, Nộn Giang và thảo nguyên Hô Luân Bối Nhĩ. Theo truyền thuyết, mấy trăm năm trước nơi đây có một cánh quân Khiết Đan đến đắp sửa thành lũy. Thủ lĩnh là Tát Cát Nhĩ Du Hán trở thành tổ tiên của người Tahua.

So sánh những nghiên cứu về người Khiết Đan với lối sống, tập tục, tôn giáo, ngôn ngữ, lịch sử của người Tahua thấy có rất nhiều điểm tương đồng, có thể đây là dân tộc kế thừa truyền thống Khiết Đan nhiều nhất, nhưng đó chỉ là những chứng cứ gián tiếp.

Lúc này ở huyện Thi Điện, tỉnh Vân Nam phát hiện một khu dân cư đặc biệt mà trên phần mộ tổ tiên họ vẫn sử dụng chữ Khiết Đan, đều tự xưng là “bản nhân”. Trong xã Do Vượng có một tòa từ đường “bản nhân”, các chuyên gia phát hiện trên một tấm biển có khắc hai chữ triện “Gia Luật”.

Họ nói đây là nơi tưởng niệm ông tổ của họ là A Tô Lỗ - theo sử chép đây là một vị tướng Khiết Đan theo Mông Cổ chống triều Kim. Nhưng làm sao chứng minh những “bản nhân” này là hậu duệ của A Tô Lỗ? Mặt khác, đất tổ Khiết Đan ở tận Mạc Bắc, cách Vân Nam đến vạn dặm, vì thế chưa thể xác định “chính danh” hậu duệ Khiết Đan cho những “bản nhân” này.

Cuối cùng, các chuyên gia quyết định dùng kỹ thuật DNA để hóa giải câu đố ngàn năm này: Lấy xương cổ tay của thi hài nữ Khiết Đan ở Lạc Sơn, Tứ Xuyên; lấy răng và xương đầu người Khiết Đan trong mộ cổ ở Xích Phong, khu tự trị Nội Mông Cổ; lấy mẫu máu của người Tahua, “bản nhân”, người Hán, Mông Cổ... ở những vùng liên quan. So sánh những biến đổi trên chuỗi DNA từ xương và răng của tiêu bản, các chuyên gia kết luận: Người Tahua có quan hệ di truyền gần nhất với người Khiết Đan. Người “bản nhân” lại có khởi nguồn phụ hệ tương tự người Tahua, rất có thể là hậu duệ của quan binh Khiết Đan trong quân đội Mông Cổ.

Kết quả xét nghiệm này kết hợp với sử liệu, các học giả đã tìm ra “khúc cuối” của người Khiết Đan: Khi người Mông Cổ lập ra triều Nguyên, xây dựng đại đế quốc Mông Cổ cắt ngang đại lục Á-Âu, chinh chiến liên miên khiến cho tộc người thiện chiến Khiết Đan phần lớn bỏ thây nơi chiến địa, số còn lại phân tán các nơi, chỉ còn nhóm tương đối lớn mới tập trung lại ẩn cư sinh sống như tộc Tahua hoặc bị đồng hóa”.

Trung Hoa nổi tiếng với chiều dài lịch sử nhiều biến cố cùng những triều đại thay phiên nhau và những câu chuyện thâm cung bí sử ít người biết đến. Chính những câu chuyện về lịch sử lại trở thành "liều thuốc" kích thích bất cứ ai muốn tò mò về lịch sử triều đại của một đất nước đông dân nhất thế giới này. Nếu du khách yêu thích lịch sử Trung Hoa và muốn tự mình khám phá nhiều điều thú vị hơn thì hãy thực hiện ngay một chuyến du lịch Trung Quốc cùng người bạn đồng hành Viet Viet Tourism nhé!

HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG

098 3355 639
Trân Trân: skype viber zalo
0908 890 187
du lich my 39tr
du lich chau au
du lich canada

Tin Tức Mới Nhất